Cùng với dịch tay chân miệng ở trẻ nhỏ, hiện nay dịch sốt xuất huyết đang có dấu hiệu gia tăng trong cộng đồng với diễn biến hết sức phức tạp. Trong đó đáng lo ngại có những đối tượng rất dễ trở nặng, có thể dẫn đến nguy cơ tử vong. Điển hình là 4 nhóm đối tượng dưới đây cần hết sức lưu ý khi mắc sốt xuất huyết.
Phụ nữ mang thai
Phụ nữ mang thai mắc sốt xuất huyết là một trong những đối tượng dễ trở nặng và gây nguy hiểm. Do đó, khi xuất hiện các triệu chứng của sốt xuất huyết thai phụ phải nhập viện sớm, để được theo dõi diễn tiến bệnh sát sao và có phương án điều trị phụ hợp, tránh gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ của như thai nhi.
Được biết, mẹ bầu bị sốt xuất huyết trong lúc sinh, khả năng băng huyết sau sinh rất cao. Mẹ bị sốt xuất huyết trong thai kỳ có thể khiến trẻ sinh non, nhẹ cân, sinh non hoặc thậm chí thai nhi chết lưu.
Người thừa cân, béo phì
Ở những người béo phì bị sốt xuất huyết, dễ dẫn đến biến chứng nặng do thể trạng mập phì, thuộc nhóm miễn dịch kém hơn người bình thường, mập phì thường đi kèm với các bệnh nội khoa khác như tăng huyết áp. Vấn đề bù dịch trên bệnh nhân mập phì cũng khó tính toán chính xác so với người bình thường, vấn đề thực hiện các thủ thuật điều trị cũng khó khăn hơn. Tỉ lệ sốc do sốt xuất huyết ở người có cân nặng bình thường là 4,6% thì ở người béo phì lên đến gần 15%. Do đó người mập phì nên nhập viện ngay để theo dõi và chủ động hơn trong điều trị.
Trẻ nhỏ
Trẻ em, đặc biệt là trẻ dưới một tuổi, hệ miễn dịch chưa phát triển toàn diện. Do đó, khó có thể chống chọi được sự tấn công của các loại virus gây bệnh. Cũng chính vì vậy, khi đối tượng này mắc sốt xuất huyết sẽ dễ vào sốc, tái sốc và gặp biến chứng nặng, thường gặp là suy đa tạng, suy hô hấp dẫn tới tử vong.
Chưa kể, dấu hiệu sốt xuất huyết ở trẻ nhỏ cũng không rõ ràng, có thể kèm theo triệu chứng của các bệnh lý tiêu hóa, hô hấp (như nôn ói, tiêu chảy hay ho, sổ mũi…). Trẻ dễ bị chẩn đoán nhầm bệnh và điều trị sai hướng. Đáng lo ngại là, trẻ chưa nói được các khó chịu của bản thân nên việc phát hiện triệu chứng, dấu hiệu trở nặng hoàn toàn phụ thuộc vào sự quan sát, theo dõi của phụ huynh. Bên cạnh đó, trẻ còn quá nhỏ, khiến việc thiết lập đường truyền tĩnh mạch để truyền dịch cũng khó khăn hơn. Khi có rối loạn đông máu, trẻ dễ bị bầm tím, xuất huyết ở các vị trí lấy ven, tiêm chích.
Người mắc các bệnh lý nền
Với những người mắc các bệnh lý nền khi bị sốt xuất huyết cũng rất dễ chuyển nặng. Qua thực tế điều trị, các bác sĩ cho biết, những bệnh nhân đang đang dùng thuốc kháng đông máu, có tiền căn viêm dạ dày tá tràng, cơ địa dễ chảy máu, có bệnh lý về huyết học… khi mắc sốt xuất huyết dễ bị rối loạn đông máu, nguy cơ chảy máu cao hơn.
Đặc biệt, người đã có vết loét do xuất huyết tiêu hóa có khả năng bị tái chảy máu ồ ạt tại chính vị trí đó. Trường hợp bệnh nhân không được cấp cứu, cầm máu kịp thời, có thể sốc mất máu, suy đa tạng và tử vong.
Vậy, làm thế nào để phòng ngừa sốt xuất huyết?
Sốt xuất huyết hiện nay chưa có vaccine phòng bệnh cũng như thuốc điều trị đặc hiệu. Do đó, việc chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa là rất quan trọng, giúp hạn chế tối đa khả năng nhiễm bệnh cũng như bảo vệ sức khỏe một cách tốt nhất. Cụ thể, bạn có thể tham khảo và áp dụng một số biện pháp phòng bệnh dưới đây:
- Loại bỏ nơi sinh sản và trú đậu của muỗi, diệt lăng quăng/bọ gậy: Dọn dẹp nhà cửa gọn gàng, thông thoáng, không để bụi rậm quanh nhà, đậy kín tất cả các dụng cụ chứa nước để tránh muỗi vào đẻ trứng, sử dụng vợt diệt muỗi, bình xịt muỗi, đốt nhang muỗi, dọn dẹp vật phế thải và nơi đọng nước quanh nhà,…
- Phòng chống muỗi đốt: Phòng bệnh sốt xuất huyết bằng cách chống muỗi đốt bao gồm không cho muỗi hút máu người bằng các biện pháp: Mặc quần áo dài tay, ngủ mùng kể cả ban ngày, dùng bình xịt muỗi, hương muỗi, kem xua muỗi, vợt điện muỗi…
- Tích cực phối hợp với chính quyền và ngành y tế trong các đợt phun hóa chất phòng chống dịch: Phun hóa chất diệt muỗi hiệu quả vào đầu mùa mưa và cuối mùa mưa. Tuy nhiên, phải phun hóa chất phòng, chống dịch đúng cách thì mới có thể đạt hiệu quả cao.
Ngoài ra, khi có biểu hiện sốt cao đột ngột, nhức đầu, đau cơ, đau khớp, chán ăn, buồn nôn, nôn,…người bệnh cần đến ngay cơ sở y tế để được thăm khám chẩn đoán bệnh.